Vận đơn đường biển - Lưu ý khi viện dẫn hợp đồng vào vận đơn

Mức độ chi tiết đưa vào vận đơn (thường gọi là “viện dẫn” – incorporated) các điều khoản của hợp đồng vận chuyển theo chuyến quyết định hiệu lực thi hành của nội dung được viện dẫn. Tranh chấp dưới đây khá thú vị về việc viện dẫn câu chữ mà những người liên quan đến vận đơn cần chú ý khi sử dụng chứng từ này và khi giải quyết tranh chấp hàng hải.

Tóm tắt nội dung tranh chấp   

Năm 2014, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội đã thụ lý vụ án kinh doanh thương mại về việc tranh chấp hợp đồng bảo hiểm (sau khi được thế quyền của người nhận hàng – người được bảo hiểm) giữa Nguyên đơn – người bảo hiểm là công ty cổ phần bảo hiểm (BH) và Bị đơn là công ty cổ phần vận tải biển (VPR) với những vấn đề cụ thể mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là buộc VPR bồi thường cho BH số tiền  là 392.605.146 đồng (VNĐ) do thiếu hàng, giảm giá trị thương mại và lãi phát sinh do chậm thanh toán.

VPR ký hợp đồng vận chuyển theo chuyến (charter party) với một công ty Singapore  –  người thuê vận chuyển (đồng thời là người bán hàng theo điều kiện CFR Incoterms 2010) để vận chuyển 6.500 tấn phân bón NPK từ cảng Isabel, Leyte, Philippines đến cảng Quy Nhơn, Việt Nam, vận đơn (bill of lading) theo mẫu “Congenbill” edition 1994. Đây là loại vận đơn dùng với hợp đồng vận chuyển theo chuyến, trên đó ghi rõ (ngoài những điều khoản khác): “Mọi điều khoản, điều kiện, biệt lệ, miễn trừ của Hợp đồng vận chuyển theo chuyến có ngày ký nêu ở trang trước, bao gồm Điều khoản Luật áp dụng và Trọng tài được viện dẫn vào vận đơn này” (All terms and conditions, liberties and exceptions of the Charter Party dated as overleaf, including the Law and Arbitration Clause, are herewith incorporated).

Chúng ta có thể thấy việc viện dẫn là rất rõ ràng và chi tiết. BH cho rằng Tòa án Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt để giải quyết vụ án này, căn cứ vào khoản b) điểm 1 Điều 411 Bộ luật Tố tụng dân sự: “Điều 411. Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. 1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam: … b) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt Nam”. VPR đã phản bác ý kiến này với lập luận rằng Hợp đồng vận chuyển đã được ký giữa VPR và công ty Singapore như nêu ở phần trên, VPR không ký bất kỳ hợp đồng nào với công ty trong nước. Vì vậy, “tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển” nêu tại điểm b) khoản 1 Điều 411 Bộ luật Tố tụng Dân sự là tranh chấp giữa VPR với công ty Singapore (nếu có). Do đó, thẩm quyền giải quyết vụ án này không thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam mà thuộc thẩm quyền của cơ quan giải quyết tranh chấp nêu trong hợp đồng vận chuyển ký giữa VPR và công ty Singapore.

Tuy cho rằng không áp dụng nhưng để Tòa và BH tham khảo tương tự đối với loại vận đơn của vụ tranh chấp, VPR đã trích dẫn Điều 100 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 (“Bộ luật HH”) về ký phát vận đơn trong hợp đồng vận chuyển theo chuyến như sau: “Trường hợp vận đơn được ký phát theo hợp đồng vận chuyển theo chuyến và người giữ vận đơn không phải là người thuê vận chuyển thì các quyền và nghĩa vụ của người vận chuyển và người giữ vận

đơn sẽ được điều chỉnh bằng các điều khoản của vận đơn; nếu các điều khoản của hợp đồng vận chuyển theo chuyến đã được đưa vào vận đơn thì các điều khoản này được áp dụng”.

Chúng ta thấy, “viện dẫn” (đưa vào) nêu ở điều này không nêu chi tiết điều khoản nào, mà chỉ nêu chung chung là “các điều khoản của hợp đồng vận chuyển theo chuyến”, trong khi vận đơn “Congenbill” nêu ở trên viện dẫn rất chi tiết là “bao gồm Điều khoản Luật áp dụng và Trọng tài được viện dẫn vào vận đơn này”.

BH cho rằng có xung đột pháp luật theo khoản 4 Điều 3 của Bộ Luật HH nhưng VPR không đồng ý vì tuy Bộ luật HH không được áp dụng ở đây nhưng ngay cả khi được áp dụng thì cũng không có xung đột pháp luật và vì vậy, không thể dẫn chiếu Bộ luật HH. Cụ thể: Không có xung đột pháp luật như lập luận của BH vì hai hệ thống pháp luật Việt Nam và Singapore (luật điều chỉnh hợp đồng vận chuyển ký giữa VPR và công ty Singapore) không cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng thể hiện ở chỗ BH đã xác nhận không có quan hệ hợp đồng giữa người nhận hàng với công ty Singapore. Do đó, chỉ có hệ thống pháp luật Singapore điều chỉnh quan hệ hợp đồng nêu trên.

Vụ án chưa kết thúc vì Tòa án có Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự để tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập, cung cấp chứng cứ và yêu cầu Công ty Singapore tham gia tố tụng.

Viện dẫn rõ ràng và chi tiết của vận đơn do VPR ký phát hoàn toàn phù hợp với phán quyết của Tòa án Anh trong vụ tranh giữa Siboti K/S và BP France SA dưới đây, theo tài liệu “Siboti K/S v BP France SA; 1278; [2003] 2 Lloyd’s Rep.364, Shipping law update, Issue 11, Ince & Co 2003, liên quan đến cùng loại vận đơn mà VPR đã ký phát.

Nguồn: www.vlr.vn